[In trang]
Tập trung cao nhất cho phát triển lưới điện
Thứ tư, 09/11/2011 - 10:36
Giai đoạn 2011-2015, TP.HCM còn dành khoảng 1.000 tỷ đồng cho phát triển nguồn năng lượng tái tạo
Theo “Quy hoạch phát triển Điện lực TP.HCM giai đoạn 2011- 2015, có xét đến 2020”, tổng sản lượng điện thương phẩm toàn TP.HCM giai đoạn 2011-2015 sẽ tăng trưởng 12,9%/năm.

 Giai đoạn 2016- 2020, sản lượng điện thương phẩm TP.HCM tăng trưởng 9,5%/năm (tương ứng 28.325 triệu kWh và 44.601 triệu kWh). Điện năng thương phẩm bình quân đầu người năm 2015 và năm 2020 là 3.130 kWh/người và 4.395 kWh/người. Mục tiêu của quy hoạch là phát triển cân đối giữa nguồn và lưới điện đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật, độ tin cậy nhằm đáp ứng cao nhất nhu cầu phát triển kinh tế xã hội toàn thành phố.

8a7eb9a58_luoi_dien_tp.jpg

Đặc điểm của phụ tải điện TP.HCM thời gian qua tăng trưởng không đồng đều dẫn đến một số trạm 110 kV phía Đông Nam đang vận hành non tải. Trong khi nhiều trạm 220kV tải điện cho khu vực trung tâm thành phố đã đầy và quá tải. Vì vậy, EVN HCMC đã tập trung vốn đầu tư cho những khu vực có tốc độ tăng trưởng phụ tải cao và chủ động giãn tiến độ một số dự án phù hợp với nhu cầu tăng trưởng điện thương phẩm thực tế. TP.HCM dự kiến triển khai gấp một số công trình trạm và đường dây 220kV đấu nối vào các trạm Tân Cảng, quận 8. Các đường dây 220kV đấu nối đều sử dụng cáp ngầm, các trạm 220kV sử dụng công nghệ GIS, có trạm 110kV nối cấp.

Giai đoạn 2011-2015, dự kiến TP.HCM đầu tư 20.936 tỷ đồng (EVN HCMC thu xếp hơn 14 ngàn tỷ đồng, còn lại là NPT, thành phố và khách hàng đầu tư). Thành phố sẽ xây dựng mới 7 trạm biến áp 220 kV (tổng công suất là 3.500 MVA), thi công sửa chữa 1 trạm 220 kV (công suất tăng thêm là 250 MVA); xây dựng mới 35 trạm 110 kV (tổng công suất là 3.427 MVA), sửa chữa 13 trạm 110 kV (tổng công suất tăng thêm là 588 MVA); ngoài ra còn có 5.299 trạm hạ thế được xây dựng mới (tổng công suất là 3.964 MVA), cùng 3.296 km đường dây trung áp và 4.517 km đường dây hạ áp.

Theo các chuyên gia, đề án “Quy hoạch phát triển điện lực thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011- 2015, có xét đến 2020” đã tạo dựng được một hệ thống điện trong tương lai đến 2020, thỏa mãn đầy đủ các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội, phù hợp với quy hoạch kiến trúc không gian đô thị, đạt được các chỉ tiêu ở mức cao về chất lượng cung cấp điện, an toàn, tin cậy và mỹ quan đô thị, được các cấp, các ngành và nhân dân thành phố đặc biệt quan tâm và mong đợi.

Tuy nhiên, với tiến độ đầu tư xây dựng nguồn điện như hiện nay, dự báo sắp tới sẽ xảy ra tình trạng quá tải trầm trọng tại nhiều khu vực. Lý do là quỹ đất của thành phố ngày càng eo hẹp nên công tác thoả thuận hướng tuyến còn phải qua nhiều khâu, nhiều cơ quan, việc bồi thường, giải phóng mặt bằng cũng rất khó khăn. Ngoài ra, đơn giá bồi thường luôn thấp hơn giá đất nên khó tạo được sự đồng thuận từ phía người dân. Cùng với việc quy hoạch đô thị các quận, huyện luôn thay đổi, điều chỉnh và chưa kết nối với quy hoạch phát triển điện làm cho việc triển khai các dự án điện, nhất là việc thỏa thuận vị trí đặt các TBA và hành lang tuyến đường dây gặp rất nhiều khó khăn.

Mặt khác, lưới điện trung áp của EVN HCMC đang vận hành ổn định ở cấp 15 kV, chất lượng điện năng cao, tổn thất điện năng thấp (khoảng 6%). Nếu nâng cấp lên 22 kV theo yêu cầu của quy hoạch sẽ cần nguồn chi phí đầu tư rất lớn để thay thế cả thiết bị phía 110 kV (đối với các MBA chỉ có cấp điện áp 110/15 kV) và các thiết bị trung áp (đối với MBA hạ thế, thiết bị đóng cắt…), kể cả các tài sản do khách hàng đầu tư trước đây nay cũng phải được phối hợp nâng cấp đồng bộ.

Vốn đầu tư cho hạ ngầm lưới điện phù hợp với kiến trúc đô thị hiện đại cũng rất lớn, trong khi thời gian hoàn thành một công trình lưới điện 220 kV cần 4-5 năm; công trình lưới điện 110 kV khoảng 3 năm. Nếu không có chính sách phù hợp thì khó có thể đảm bảo đúng tiến độ. Trong quy hoạch lại chưa đề xuất được các cơ chế hỗ trợ đầu tư. Vì vậy, thành phố cần có cơ chế, chính sách hỗ trợ vốn từ ngân sách hoặc cho ngành điện vay vốn với lãi suất ưu đãi để ngầm hoá lưới điện. Ngoài sử dụng công nghệ đường dây đi ngầm và trạm GIS, việc nghiên cứu xây dựng các công trình trạm 110kV dạng bán ngầm, tự động hoá cao, giảm bớt những hạng mục xây dựng không cần thiết là rất quan trọng. Kể cả việc nghiên cứu khả năng cho cáp đi trên cầu đối với những công trình đường dây cáp ngầm cao áp vượt sông lớn

Quỹ đất xây dựng công trình là vẫn đề khá nan giải hiện nay. Để đẩy nhanh tiến độ các công trình, cần giảm bớt các thủ tục hành chính và giải quyết thoả đáng trong các khâu lựa chọn địa điểm, giải phóng mặt bằng, đền bù, di dân, tái định cư.

Được biết, để giải quyết các vướng mắc về giải phóng mặt bằng và chọn địa điểm trong quá trình đầu tư các dự án lưới điện, ngày 1/11 vừa qua, UBND TP.HCM đã làm việc với EVN HCMC cùng các sở ban ngành trên địa bàn thống nhất tinh thần tất cả cùng vào cuộc quyết liệt với mục tiêu ưu tiên cao nhất cho các công trình lưới điện quốc gia. Thành phố yêu cầu Sở Tài chính sớm duyệt giá đền bù; Sở Giao thông vận tải nghiên cứu phương án làm hào kỹ thuật và các quận, huyện triển khai đền bù và vận động người dân nhanh chóng bàn giao mặt bằng cho dự án. Trường hợp những hộ dân gây khó khăn thì địa phương phải tiến hành cưỡng chế. Chậm nhất đến quý 2/2012 phải giải quyết dứt điểm các vướng mắc để tạo thuận tiện cho các dự án truyền tải điện. Hy vọng, sự ủng hộ tích cực của UBND TP sẽ giúp ngành điện sớm tháo gỡ được những khó khăn về đất đai thời gian qua.

Giai đoạn 2011-2015, TP.HCM còn dành khoảng 1.000 tỷ đồng cho phát triển nguồn năng lượng tái tạo. Dự kiến đến năm 2015, sẽ xây dựng nhà máy đốt rác phát điện tại khu liên hợp xử lý chất thải rắn Tây Bắc Củ Chi tại xã Phước Hiệp, huyện Củ Chi có quy mô khoảng 40 MW. Ngoài ra, thành phố cũng sẽ thúc đẩy phát triển nguồn năng lượng tái tạo từ rác, gió và điện mặt trời, để vừa sản xuất điện năng, vừa giải quyết các vấn đề môi trường.

Thúy Hằng