[In trang]
Chiến lược năng lượng Nga và những thách thức
Thứ tư, 11/09/2013 - 10:26
Không giống như Brezhnev và Gorbachev, ông Putin đã chứng minh được khả năng ban hành các chính sách một cách hiệu quả và khả năng thay đổi chiến lược trong lĩnh vực năng lượng của Nga.
Kremlin có vẻ như đã nhận thức một cách sâu sắc về những thách thức mà nước Nga sẽ phải đối mặt trong hai thập kỷ tới, khi một chu kỳ năng lượng tiến tới điểm kết thúc. Không giống như Brezhnev và Gorbachev, ông Putin đã chứng minh được khả năng ban hành các chính sách một cách hiệu quả và khả năng thay đổi chiến lược trong lĩnh vực năng lượng của Nga. Trong khi sự phụ thuộc của Nga vào giá dầu cao tiếp tục làm Mátxcơva lo lắng, thì ông Putin đến nay đã xoay xở để chủ động ứng phó với những thay đổi trong sản xuất và tiêu thụ năng lượng từ bên bên ngoài, đặc biệt là những đối tác có thể tác động đến thị trường khí đốt tự nhiên châu Âu. Tuy nhiên, tính bền vững lâu dài của mô hình mà Nga đang hướng tới vẫn còn bị nghi ngờ. 
ffdae1d28_khidotnga.jpg

"Kremlin có vẻ như đã nhận thức một cách sâu sắc về những thách thức mà nước Nga sẽ phải đối mặt trong hai thập kỷ tới, khi một chu kỳ năng lượng tiến tới điểm kết thúc".

Thách thức đối với vấn đề duy trì năng lượng Nga

Mối lo ngại hàng đầu của Nga là tính dễ bị tổn thương của nền kinh tế nước này trước những biến động về giá năng lượng. Đóng góp tới một nửa ngân sách quốc gia, ngành năng lượng Nga (trong đó 80% là từ dầu mỏ và 20% từ khí đốt tự nhiên) có thể khiến chính phủ lao đao nếu giá năng lượng giảm. Điện Kremlin đã giảm dự toán ngân sách trên cơ sở tính toán giá dầu ở mức 93 USD/thùng thay vì 119 USD/thùng, mặc dù ngay cả ở mức giá đó, chính phủ được nhìn nhận là đang tham gia một trò chơi may rủi. Doanh thu từ xuất khẩu khí đốt tự nhiên cũng đang bị nghi vấn. Với nguồn cung cấp khí đốt tự nhiên thay thế đang mời chào đối tượng tiêu dùng lớn nhất của Nga - châu Âu - điện Kremlin buộc phải giảm giá trong những tháng gần đây.

Năm nay, thu nhập của Gazprom từ châu Âu dự kiến ​​ sẽ sụt giảm 4,7 tỷ USD - khoảng 10% doanh thu do việc giảm giá nói trên. Ngành năng lượng Nga đang căng thẳng. Việc củng cố ngành này chủ yếu diễn ra với hai công ty nhà nước lớn mang lại nhiều lợi ích cho điện Kremlin, nhưng sau một thập kỷ củng cố, khó khăn vẫn còn chồng chất. Ít phải chịu cạnh tranh, tập đoàn khí đốt tự nhiên khổng lồ của Nga, Gazprom, đang bị tụt hậu trong công nghệ và bị coi là không thân thiện trong các hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Trong khi đó, tập đoàn khai thác dầu mỏ khổng lồ Rosneft gần đây cũng đã trở nên độc quyền hơn, và cũng như Gazprom, nó có thể bị rơi vào một cái bẫy tương tự. Với các dự án năng lượng tại Nga đòi hỏi các công nghệ tiên tiến hơn (do vị trí và môi trường của chúng) và nhiều vốn hơn trong tương lai, cả Gazprom và Rosneft sẽ cần phải được hiện đại hóa và thu hút đầu tư nước ngoài.

Tham nhũng cũng là một vấn đề quan trọng. Theo một số ước tính, có khoảng 20 - 40 % doanh thu của Gazprom bị thất thoát do tham nhũng hoặc do quản lý kém hiệu quả. Rosneft cũng gặp phải vấn đề tương tự. Sự thất thoát này sẽ có thể còn tồn tại với doanh thu năng lượng cao của Mátxcơva trước đây, nhưng nó sẽ không thể tồn tại trong tương lai nếu giá năng lượng sụt giảm hoặc việc duy trì và mở rộng các lĩnh vực năng lượng trở nên tốn kém hơn. Kremlin đang điều tra Gazprom. Tuy nhiên, với tình trạng tham nhũng tràn lan trong suốt quá trình lịch sử, Kremlin sẽ khó có thể loại bỏ những hành vi sai phạm tại tập đoàn khí đốt tự nhiên này.

Ngoài ra, sự phụ thuộc của châu Âu vào nguồn năng lượng của Nga đang giảm dần. Tình trạng thiếu hụt khí đốt tự nhiên diễn ra trên khắp châu Âu trong các cuộc khủng hoảng Nga - Ucraina vào năm 2006 và 2009 là một lời nhắc nhở buồn bã về khả năng các quốc gia châu Âu dễ bị tổn thương như thế nào do phải lệ thuộc vào nguồn khí đốt của Nga. Các nước châu Âu đã bắt đầu phát triển các chiến lược cho phép họ giảm thiểu không chỉ khả năng dễ bị tổn thương do các tranh chấp giữa Nga và các quốc gia quá cảnh trung gian mà cả sự lệ thuộc nói chung của họ vào nguồn cung năng lượng từ Nga. Sự phát triển mau lẹ của các phương tiện nhập khẩu khí tự nhiên hóa lỏng tiên tiến là một trong những nỗ lực như vậy. Điều này sẽ tạo cho một số quốc gia - đặc biệt là Lítva và Ba Lan - khả năng nhập khẩu khí đốt tự nhiên từ các nhà cung cấp trên toàn thế giới mà không cần phải thông qua Nga như trước đây. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh công nghệ khai thác khí đốt tự nhiên phi truyền thống phát triển mạnh mẽ, với trữ lượng khổng lồ từ đá phiến được phát hiện tại Mỹ. Việc phát triển một dự án đường ống dẫn giúp vận chuyển khí đốt tự nhiên từ các khu vực ngoài nước Nga tới thị trường châu Âu là một nỗ lực khác - mặc dù cho đến nay vẫn chưa thực sự thành công - để giảm sự phụ thuộc của châu Âu vào khí đốt tự nhiên của Nga.

Ngoài ra, một loạt các chính sách trên toàn EU, trong đó có "Gói năng lượng thứ ba", đã bắt đầu mang lại cho các quốc gia thành viên EU các công cụ chính trị và pháp lý để giảm thiểu sự thống trị của Gazprom trong chuỗi hệ thống cung ứng khí đốt tự nhiên của riêng họ. Khuôn khổ chung này cũng cho phép các quốc gia châu Âu thể hiện một mặt trận thống nhất hơn trong việc thách thức các hoạt động kinh doanh nào đó mà họ cho là mang tính độc quyền, với ví dụ mới nhất là việc Ủy ban châu Âu điều tra chiến lược giá của Gazprom ở Trung Âu. Điều này, cùng với những nỗ lực được EU tài trợ nhằm kết nối mạng lưới vận chuyển khí đốt tự nhiên của các nước thành viên EU ở Trung Âu, đã làm cho Nga ngày càng gặp khó khăn trong việc sử dụng giá khí đốt tự nhiên như một công cụ của chính sách đối ngoại. Đây là một sự thay đổi lớn trong cách mà Mátxcơva đã xử sự với khu vực này trong suốt một thập kỷ qua, khi họ giảm giá khí đốt cho những nước có quan hệ gần gũi (như với Bêlarút) và nâng giá đối với những nước không không có quan hệ như vậy (vùng Baltic). Cuối cùng, Nga phải đối mặt với một khả năng giản đơn nhưng nghiêm trọng là cuộc khủng hoảng tài chính và chính trị ở châu Âu sẽ tiếp tục làm suy giảm tiêu thụ năng lượng của lục địa này, hoặc ít nhất là cản trở bất kỳ sự tăng trưởng nào về mặt tiêu thụ trong thập kỷ tới.

Động thái tiếp theo của Nga

Chính quyền Putin đang nhận thức rõ những thách thức đối với lĩnh vực năng lượng của Nga. Nỗ lực của Nga trong thập kỷ qua nhằm chuyển dịch khỏi sự phụ thuộc vào xuất khẩu năng lượng bằng cách tập trung phát triển công nghiệp đã không đặc biệt thành công và nước này vẫn phải tiếp tục gắn bó với số phận của ngành năng lượng. Chiến lược của Nga trong việc sử dụng con bài xuất khẩu năng lượng vừa làm công cụ cho chính sách đối ngoại, vừa làm cỗ máy in tiền đã tỏ ra mâu thuẫn: Để sử dụng năng lượng trong chính sách đối ngoại, Mátxcơva phải có khả năng giảm hoặc tăng giá, đồng thời đe dọa cắt nguồn cung, một điều tối kỵ nếu xét từ góc độ kinh doanh nhằm thu lợi nhuận.

Tình thế toàn cầu và khu vực đã thay đổi tới mức Mátxcơva phải ưu tiên một trong hai cách sử dụng ngành công nghiệp năng lượng của họ, và họ đã quyết định chọn cách duy trì khả năng tạo doanh thu. Điện Kremlin đã bắt đầu xây dựng một loạt chính sách nhằm ứng phó với những thay đổi dự kiến sẽ diễn ra trong hai thập kỷ tới. Trước tiên, Nga đang cố gắng giải quyết sự mong manh được đánh giá là rất nguy hiểm xung quanh quan hệ của họ với các quốc gia quá cảnh quan trọng mà theo truyền thống được phép xuất khẩu năng lượng sang châu Âu. Việc xây dựng các thiết bị đầu cuối cho luồng dầu Ust- Luga trên Biển Baltic cho phép Nga bỏ qua phần lớn hệ thống đường ống của Bêlarút và vận chuyển dầu thô và các sản phẩm từ dầu thô trực tiếp tới người tiêu dùng.

Tương tự như vậy, việc xây dựng đường ống dẫn khí tự nhiên mang tên Dòng chảy phương Bắc dưới biển Bantic - và cuối cùng là Dòng chảy phương Nam, thông qua Biển Đen, sẽ cho phép dòng khí đốt của Nga không cần đi qua các hệ thống quá cảnh của Ucraina và Bêlarút, nếu cần thiết. Hai đường ống này sẽ đảm bảo giao khí đốt tự nhiên cho các thị trường tiêu dùng rộng lớn ở châu Âu, như Đức và Italia, mà Nga tìm cách duy trì quan hệ đối tác chiến lược lâu dài. Bằng cách cho phép Nga đảm bảo giao hàng cho các khách hàng chính ở châu Âu, các hệ thống theo đường vòng nói trên sẽ bảo đảm nguồn thu quan trọng của Mátxcơva. Chiến lược xuất khẩu năng lượng một cách linh hoạt trong tương lai này cũng sẽ làm giảm dần đòn bẩy mà Minsk và Kiev có thể tận dụng để tránh bị Mátxcơva ép buộc làm các quốc gia chư hầu trong vùng đệm của họ - một trong vài mục tiêu của chính sách đối ngoại mà Mátxcơva vẫn còn có ý định theo đuổi thông qua chiến lược năng lượng.

Hơn nữa, Mátxcơva đã điều chỉnh chiến lược năng lượng của mình với khách hàng châu Âu giữa lúc diễn ra những nỗ lực tự do hoá và đa dạng hoá. Gazprom đã bắt đầu mở rộng chính sách giảm giá khí đốt tự nhiên trước đây chỉ dành cho các đối tác chiến lược như Đức hoặc Italia. Điện Kremlin hiểu rằng hy vọng duy nhất của họ về việc duy trì doanh thu từ xuất khẩu khí đốt tự nhiên giữa lúc phải đối mặt với một sự bùng nổ toàn cầu về khí đá phiến là giữ chân khách hàng bằng giá cả cạnh tranh và hợp đồng dài hạn. Mátxcơva sẽ tiếp tục cho thấy rằng họ có thể cung cấp cho người tiêu dùng châu Âu với khối lượng lớn và chi phí giao hàng thấp.

Cuối cùng, Nga đang tập trung sự chú ý đáng kể vào việc phát triển kết nối với thị trường năng lượng châu Á đang có nhu cầu ngày một gia tăng. Một trong những khía cạnh chung đối với tất cả các chiến lược mà Nga xây dựng để theo đuổi trong thập kỷ tới là nguồn vốn lớn cần có để hoàn thành chúng - riêng đường ống dẫn dầu Đông Siberia-Thái Bình Dương đã đòi hỏi phải đầu tư gần 15 tỷ USD. Mặc dù bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2009, Nga vẫn còn có nguồn vốn dự trữ lớn dành cho các dự án quy mô lớn, nhưng các quỹ này không phải là vô hạn.

Kremlin có vẻ như đã nhận thức một cách sâu sắc về những thách thức mà nước Nga sẽ phải đối mặt trong hai thập kỷ tới, khi một chu kỳ năng lượng tiến tới điểm kết thúc. Không giống như Brezhnev và Gorbachev, ông Putin đã chứng minh được khả năng ban hành các chính sách một cách hiệu quả và khả năng thay đổi chiến lược trong lĩnh vực năng lượng của Nga. Trong khi sự phụ thuộc của Nga vào giá dầu cao tiếp tục làm Mátxcơva lo lắng, thì ông Putin đến nay đã xoay xở để chủ động ứng phó với những thay đổi trong sản xuất và tiêu thụ năng lượng từ bên bên ngoài, đặc biệt là những đối tác có thể tác động đến thị trường khí đốt tự nhiên châu Âu. Tuy nhiên, tính bền vững lâu dài của mô hình mà Nga đang hướng tới vẫn còn bị nghi ngờ.

Theo Năng lượng Việt Nam