Cùng với sự phát triển của hoạt động sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong những năm gần đây, tại Việt Nam, đã xuất hiện mô hình thực hiện các giải pháp tiết kiệm năng lượng (TKNL) tại các cơ sở sử dụng năng lượng thông qua các Công ty dịch vụ năng lượng (ESCO).
Theo các chuyên gia năng lượng, ESCO là một mô hình quản lý hiện đại đã được các nước trên thế giới áp dụng và được coi là biện pháp quan trọng trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án về TKNL.
Tại các nước phát triển, mô hình ESCO đã được triển khai và áp dụng phổ biến gần 30 năm qua. Các nước trong khu vực như Thái Lan, mô hình ESCO đầu tiên được thành lập từ năm 1999, năm 2012 ra đời Hiệp hội ESCO, đến nay đã có 45 doanh nghiệp ESCO đăng ký hoạt động. Tại Trung Quốc, năm 2002, dịch vụ ESCO bùng nổ mạnh mẽ, doanh thu từ dịch vụ ESCO đạt 4,25 tỷ đô la vào năm 2010 và đạt 5,5 tỷ đô la năm 2011. Hiện nay, số lượng doanh nghiệp ESCO đang hoạt động tại Trung Quốc lên tới trên 500 doanh nghiệp.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về ESCO nhưng các chuyên gia đều thống nhất cho rằng, ESCO là loại hình doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ năng lượng với vai trò cung cấp dịch vụ trọn gói từ việc lập kế hoạch, lắp đặt thiết bị, vận hành, bảo trì, tối ưu hóa quá trình và bảo đảm phương án tài chính của một dự án TKNL; ESCO cũng bảo đảm với khách hàng về chi phí đầu tư, kết quả tiết kiệm năng lượng, chịu rủi ro trong đầu tư và thực hiện chức năng quản lý và bảo hành thiết bị trong cả thời gian cung cấp dịch vụ.
Hiện nay, các dịch vụ do ESCO cung cấp bao gồm TKNL trong chiếu sáng công cộng, tòa nhà thương mại và dịch vụ, sản xuất công nghiệp, phân phối điện và sử dụng năng lượng tái tạo. Việc thanh toán dịch vụ do các ESCO thông thường được thực hiện theo các hình thức hợp đồng bảo đảm TKNL, hợp đồng chia sẻ TKNL hoặc hợp đồng mua bán điện.
Quy trình thực hiện một dự án theo mô hình ESCO được mô tả như sau:
Hoạt động ESCO tại Việt Nam chính thức xuất hiện từ năm 2011, sau khi Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả có hiệu lực. Tại Việt Nam, hiện có hơn 100 tổ chức, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tư vấn, dịch vụ TKNL (kiểm toán năng lượng, đào tạo, truyền thông, tư vấn giải pháp TKNL…), đó là các Trung tâm TKNL, Trung tâm Khuyến công và Phát triển công nghiệp, Trung tâm ứng dụng và chuyển giao công nghệ... thuộc các Sở Công Thương, Sở Khoa học và Công nghệ các tỉnh, thành phố; Viện nghiên cứu chuyên ngành, một số tổ chức thuộc các trường đại học và các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Đây được coi là lĩnh vực mới, có tiềm năng phát triển, tuy nhiên, số doanh nghiệp chính thức đăng ký hoạt động ESCO tại Việt Nam hiện nay mới chỉ có 05 doanh nghiệp là: Công ty Cổ phần Tư vấn và đầu tư Năng lượng Việt – VIETESCO; Công ty cổ phần VES; Công ty Cổ phần Đầu tư và phát triển năng lượng mặt trời Bách Khoa – SolarBK; Công ty Cổ phần Dịch vụ năng lượng Kasati Esco; Công ty TNHH phát triển năng lượng SYSTECH
Mặc dù Chính phủ đã có chính sách khuyến khích, hỗ trợ để thúc đẩy hoạt động TKNL và ESCO như hỗ trợ đầu tư, ưu đãi đầu tư đối với dự án đầu tư sản xuất phương tiện, thiết bị tiết kiệm năng lượng; đầu tư nâng cấp dây chuyền sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất bằng công nghệ tiết kiệm năng lượng; ưu đãi về thuế, hỗ trợ vốn, đất đai để xây dựng cơ sở sản xuất các sản phẩm TKNL; miễn giảm thuế nhập khẩu theo quy định đối với phương tiện, thiết bị, phụ tùng, linh kiện TKNL mà trong nước chưa sản xuất được...; nhưng vẫn còn một số rào cản cần phải khắc phục trong thời gian tới nhằm thúc đẩy hoạt động ESCO phát triển tương xứng với tiềm năng.
Để thúc đẩy mô hình ESCO mà hầu hết các nước đang áp dụng có hiệu quả khi triển khai các chương trình, dự án TKNL, vể mặt thể chế rất cần sự vào cuộc của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét, bổ sung quy định pháp luật để quản lý hoạt động của các doanh nghiệp theo mô hình ESCO, bao gồm việc đưa mô hình ESCO vào quản lý như là một loại hình kinh doanh với các chức năng, nhiệm vụ được quy định cụ thể như tư vấn giải pháp TKNL, thu xếp vốn đầu tư thực hiện các giải pháp TKNL, chia sẻ lợi nhuận, rủi ro đầu tư, cơ chế huy động vốn, hợp đồng mẫu...
Như đã phân tích ở trên, mô hình công ty dịch vụ năng lượng - ESCO tại Việt Nam tuy mới phát triển, nhưng tiềm năng rất lớn, với thị trường TKNL đã và đang hình thành, tiềm năng TKNL trong lĩnh vực công nghiệp đạt trên 20%; trong lĩnh vực xây dựng, tòa nhà, giao thông vận tải đạt 25-35%; khu vực sinh hoạt và hoạt động dịch vụ đạt 15-30%. Nếu tạo được cơ chế hỗ trợ phù hợp, coi hoạt động của các doanh nghiệp theo mô hình ESCO là một mắt xích quan trọng trong việc triển khai các chương trình TKNL quốc gia thì trong tương lai gần, thị trường ESCO Việt Nam sẽ phát triển không thua kém các nước trong khu vực và thế giới.
Định hướng thúc đẩy hoạt động của ESCO trong thời gian tới: 1. Hoàn thiện về thể chế, chính sách thúc đẩy ESCO: chi tiết các quy định về ưu đãi đầu tư hiện hành; xây dựng các tiêu chí thành lập công ty ESCO; thu xếp vốn đầu tư thực hiện các giải pháp TKNL, chia sẻ lợi nhuận, rủi ro đầu tư, cơ chế huy động vốn, hợp đồng mẫu... 2. Xây dựng cơ chế tài chính bền vững: vay lãi suất thấp, gây quỹ, quỹ bảo lãnh; thiết lập các kênh hợp tác với các tổ chức tài trợ và các quỹ. 3. Xây dựng mô hình liên kết tài chính giữa doanh nghiệp - công ty ESCO và các tổ chức tín dụng. 4. Trao quyền tự chủ về tài chính cho các tổ chức tư vấn, dịch vụ TKNL tại địa phương; xây dựng cơ chế phân bổ nguồn lực từ các quỹ đầu tư cho các tổ chức tư vấn, dịch vụ để đầu tư vào các dự án TKNL. 5. Tăng cường đào tạo nâng cao năng lực: cung cấp thông tin, đào tạo cho các tổ chức tài chính về cách thức và cấp vốn cho hoạt động ESCO.
|
Theo Tạp chí Công Thương