[In trang]
Điện gió: Nguồn năng lượng càng dùng lâu… càng rẻ
Thứ tư, 03/12/2008 - 07:39
Cho đến tận cuối những năm 1990, nhiều người vẫn cho rằng giá thành (bao gồm giá lắp đặt và vận hành) của các trạm điện gió khá cao. Nhưng ngày nay, định kiến này đang được nhìn nhận và đánh giá lại, đặc biệt khi quan niệm giá thành không chỉ bao gồm chi phí kinh tế mà còn gồm cả những chi phí ngoài như:

Điện gió: Nguồn năng lượng càng dùng lâu… càng rẻ

Chi phí về xã hội do phải tái định cư, hay về môi trường do ô nhiễm. Trong khi nguồn năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch như than đá, dầu mỏ, khí đốt đang bị coi là kém ổn định và có xu thế tăng giá, thì cùng với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, giá thành của điện gió càng ngày càng rẻ hơn.

 

Trong cuộc hội thảo mới đây đánh giá về những tác động của ngành năng lượng Việt Nam sau khi gia nhập WTO, số liệu đưa ra cho thấy: Nếu như Nhà máy Thủy điện Sơn La với 6 tổ máy, tổng công suất thiết kế là 2400 MW, được dự kiến xây dựng trong 7 năm, với tổng mức đầu tư là 2,4 tỷ USD. Giá thành khi phát điện (chưa tính đến chi phí môi trường) là 70 USD/MWh. Như vậy, để có được 1 kW công suất cần đầu tư 1.000 USD trong 7 năm. Trong khi đó, theo thời giá năm 2003, đầu tư cho 1 kW điện gió ở nhiều nước châu Âu cũng vào khoảng 1.000 USD. Ðáng lưu ý là giá thành này giảm đều hàng năm do cải tiến công nghệ. Nếu thời gian sử dụng trung bình của mỗi trạm điện gió là 20 năm thì chi phí khấu hao cho một kWh điện gió sẽ là 14 USD. Cộng thêm chi phí thường xuyên thì tổng chi phí quản lý và vận hành sẽ nằm trong khoảng 48 - 60 USD/MWh - tương đương với thủy điện, vốn được coi là nguồn năng lượng rẻ và hiệu quả. Theo dự đoán, đến năm 2020, giá thành đầu tư của điện gió sẽ giảm đáng kể, chỉ khoảng 600 USD/kW, khi ấy chi phí quản lý và vận hành sẽ giảm đáng kể, chỉ còn khoảng 30 USD/MWh.

 

Các chuyên gia trong hội thảo cũng chỉ rõ, Việt Nam có trên 3200 km bờ biển, đón gió trực tiếp từ biển Ðông, do đó có nhiều điều kiện thuận lợi khai thác nguồn năng lượng này. Theo đánh giá tiềm năng năng lượng gió (NLG) khu vực Ðông Nam Á của Tổ chức Khí tượng thế giới, Việt Nam là quốc gia có tiềm năng NLG tốt nhất. Dựa trên cơ sở dữ liệu nhiều năm của hơn 300 trạm khí tượng thuỷ văn trên phạm vi cả nước, các kết quả tính toán cho thấy bức tranh tổng quát về đặc điểm chế độ gió và tiềm năng năng lượng gió tại Việt Nam: Ở độ cao khoảng 12 m, tốc độ gió trung bình/năm khu vực ven biển là khoảng từ 4 đến 5 m/s; ở khu vực hải đảo, tốc độ gió trung bình/năm ở khu vực này khoảng từ 5 đến 8 m/s. Trong khi vùng núi phía bắc miền Trung, Tây Nguyên, vùng núi phía Bắc giáp Trung Quốc ..., ở độ cao 65 m, có tốc độ gió trung bình năm đạt từ 8 đến 9,5 m/s, có thể xây dựng các nhà máy điện gió công suất lớn. Theo tính toán của tổ chức nói trên thì tổng tiềm năng lý thuyết về NLG ở Việt Nam được đánh giá là trên 100.000 MW (tính với tốc độ gió từ 7 m/s trở lên). Vùng lãnh thổ khai thác được NLG có tổng diện tích chiếm gần 9% diện tích cả nước. Tuy nhiên, để khuyến khích đầu tư về năng lượng gió, cần có các chính sách về năng lượng tái tạo, mạng lưới điện, đầu tư… nhằm thu hút vốn cho các trạm điện gió. Trước mắt, nhất thiết phải tiến hành ngay nhiệm vụ điều tra cơ bản đánh giá chế độ gió và tiềm năng NLG theo yêu cầu của công nghệ điện gió công suất lớn.

 

Việc không đầu tư nghiên cứu và phát triển điện gió sẽ là một sự lãng phí rất lớn, trong khi nguy cơ thiếu điện luôn thường trực, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế và năng lực cạnh tranh quốc gia. Trong khi đó, hiện nay chiến lược quốc gia về điện mới chỉ quan tâm tới thủy điện, nhiệt điện và điện hạt nhân.

Nếu nhìn ra thế giới thì việc phát triển điện gió đang là một xu trong chiến lược năng lượng. Khác với điện hạt nhân cần một quy trình kỹ thuật và giám sát hết sức nghiêm ngặt, việc xây lắp điện gió không đòi hỏi quy trình khắt khe đó. Với kinh nghiệm phát triển điện gió thành công của Ấn Ðộ, Trung Quốc, Phi-lip-pin và với những lợi thế về mặt địa lý của Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có thể phát triển năng lượng điện gió để đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế.

 

(Theo: Kinh tế đô thị)