| Tại Việt Nam, hiện nay trước nhu cầu ngày   càng gắt gao về năng lượng nhằm đáp ứng đầy đủ và kịp thời cho sản xuất, sinh   hoạt của nền kinh tế quốc dân trong bối cảnh hội nhập đi lên công nghiệp hóa,   hiện đại hóa, những khái niệm trên đã được các nhà hoạch định quản lý, các   nhà khoa học…quan tâm tiếp cận nghiên cứu có hệ thống với nhiều hướng gợi mở   khả quan. Theo đánh giá ban đầu, các nguồn năng lượng mới và tái tạo của Việt   Nam   như năng lượng mặt trời, năng lượng gió, năng lượng sinh khối…đều ẩn chứa   nhiều tiềm năng và khả năng khai thác. Cái chúng ta cần là làm thế nào để sớm   đánh giá và “đánh thức” được những tiềm năng trên nhằm khai thác và sử dụng   một cách hiệu quả.Mối quan tâm toàn cầu.
 Thế giới đang ngày càng ý thức được rõ rệt hơn   sự hữu hạn của các nguồn tài nguyên. Vì thế cuộc cạnh tranh tìm kiếm các nguồn   năng lượng mới sẽ ngày càng khốc liệt trên phạm vi toàn cầu. Theo dự báo của   Cơ quan năng lượng quốc tế (IEA), nếu mức tiêu thụ năng lượng của thế giới tiếp   tục giữ ở mức như hiện nay, dự báo thị trường năng lượng toàn cầu sẽ tăng khoảng   55% trong thời gian từ năm 2005-2030. Không bàn cãi nhiều, nguồn nhiên liệu   hóa thạch như dầu, than vẫn đóng vai trò chủ đạo, chiếm 84% tổng nhu cầu từ nay   đến năm 2030 trong đó dầu vẫn là nhiên liệu tiêu thụ nhiều nhất, khoảng 86,5 triệu   thùng/ngày trong năm 2008. Với nhu cầu tiêu dùng năng lượng liên tục tăng trong   khi các giếng dầu gần như đã hoạt động hết công suất thì trữ lượng dầu mỏ chỉ   có thể được khai thác thêm khoảng 40–50 năm nữa. Mặc dù đã có những nghiên cứu   và áp dụng các nguồn năng lượng có khả năng tái tạo, năng lượng sạch… thì việc   sử dụng các nguồn năng lượng này trên một quy mô lớn vẫn còn là một tương lai   xa vời.  Tại châu Âu, Đức được coi là quốc gia giữ vai trò   tiên phong trong việc khai phá và đầu tư vào lĩnh vực những nguồn năng lượng   tái sinh, đặc biệt là trong lĩnh vực sử dụng năng lượng gió. Hiện nay, việc   sử dụng năng lượng gió (phong điện) tại Đức chiếm khoảng 28% tổng năng lượng   gió của thế giới, vượt xa một số quốc gia khác có thế mạnh về lĩnh vực này   như: Mỹ, Tây Ban Nha và Ấn Độ… Không dừng lại ở đó, Đức còn thể hiện vai trò   đi đầu trong các sản phẩm có khả năng nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng   như các động cơ tiêu thụ ít năng lượng đã và đang được đầu tư nghiên cứu tại   các trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D Centre) của hãng Daimler   Chrisler, BMW; các nồi hơi đốt bằng khí có chỉ số đốt cao; những vật liệu xây   dựng cách nhiệt và giữ nhiệt cho nhà ở… Theo cam kết của các quốc gia trong   Nghị định thư Kyoto, trong 5 năm tới sẽ tăng thành phần năng lượng tái sinh   lên khoảng 5% tổng số năng lượng tiêu thụ toàn cầu. Vì vậy hiện nay những công   nghệ và sản phẩm liên quan đến năng lượng tái tạo có “xuất xứ từ Đức” đang ngày   càng thu hút được mối quan tâm của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam… Tiềm năng của Việt Nam
   Theo các nghiên cứu, nguồn năng lượng mới và tái tạo của   Việt Nam được đánh giá qua “trữ lượng” của nhiều nguồn như năng lượng địa   nhiệt với khoảng hơn 300 nguồn nước khoáng nóng có nhiệt độ bề mặt từ 30-105oC,   tập trung nhiều tại Tây Bắc, Trung bộ.
 Với năng lượng mặt trời, do Việt Nam là một quốc gia nằm trong   vùng nhiệt đới nên số giờ nắng trung bình khoảng 2.000-2.500 giờ/năm với tổng   năng lượng bức xạ mặt trời trung bình khoảng 150Kcal/cm2/năm. Nguồn năng lượng   này được sử dụng để cấp điện qua các tấm pin mặt trời, các thiết bị biến đổi   quang năng thành nhiệt năng trong các bình đun nước, máy sấy nông sản… Hiện   nay tại Việt Nam,   đã có một số công ty tập trung hướng đầu tư nghiên cứu, phát triển và thương   mại hóa các sản phẩm sử dụng năng lượng mặt trời. Đây được coi là hướng đi   đúng đắn và có nhiều ưu thế của Việt Nam trong bối cảnh nguồn điện năng cung   cấp rất “chập chờn” như hiện nay vào những cao điểm. Ngoài ra tiềm năng về   năng lượng gió của Việt Nam   cũng không nhỏ. Theo các nghiên cứu gần đây, mức độ phân bố mật độ năng lượng   gió của Việt Nam được xác định trong khoảng từ 800-1400 KWh/m2/năm tại các   hải đảo; 500-1.000 KWh/m2/năm tại vùng duyên hải miền Trung, Tây Nguyên và   duyên hải Nam bộ; 500 KWh/m2/năm tại các khu vực khác. Tiềm năng năng lượng   sinh khối bao gồm gỗ, củi, rơm rác, phụ phẩm nông nghiệp... của Việt Nam cũng   được đánh giá cao với khoảng 43-46 triệu tấn dầu tương đương (TOE)/năm, trong   đó khoảng 60% là năng lượng gỗ củi (26-27 triệu TOE) và 40% năng lượng rơm   rác, phụ phẩm nông nghiệp (17-19 triệu TOE). Riêng năng lượng khí sinh học,   tiềm năng lý thuyết được đánh giá sơ bộ khoảng 0,4 triệu TOE/năm, nhưng tiềm   năng có khả năng khai thác được chiếm khoảng 10%.
 Trong chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2020,   tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Việt Nam phấn   đấu tăng tỷ lệ các nguồn năng lượng mới và tái tạo lên khoảng 3% tổng năng   lượng thương mại sơ cấp vào năm 2010 và khoảng 5% vào năm 2020, đến năm 2050   sẽ là 11%.
 Tuy nhiên về công tác điều tra quy hoạch, cho đến nay các dạng năng lượng mới   và tái tạo chưa được đánh giá đầy đủ, bởi vậy chúng ta vẫn cần có kế hoạch   đầu tư thích đáng cho việc điều tra bổ sung các số liệu, tiến tới quy hoạch,   phân vùng các dạng năng lượng này để có kế hoạch đầu tư, khai thác hợp lý.   Việc lập các tổ chức chuyên trách thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau để   điều tra, xây dựng quy hoạch, kế hoạch cũng phải được quan tâm đúng mức. Bên   cạnh đó phải tăng cường tuyên truyền sử dụng các nguồn năng lượng mới và tái   tạo, đặc biệt là tại các khu vực vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo cũng   như xây dựng cơ chế quản lý thích hợp để duy trì và phát triển các nguồn điện   ở những khu vực này.
 Một trong những công tác quan trọng khác là phải lồng ghép sử dụng năng lượng   mới và tái tạo vào chương trình tiết kiệm năng lượng và các chương trình mục   tiêu quốc gia như chương trình điện khí hóa nông thôn, xóa đói giảm nghèo…
 Đối với công tác đầu tư, Nhà nước khuyến khích các DN xây dựng các cơ sở   thích hợp để sản xuất, lắp ráp, sửa chữa các loại thiết bị năng lượng mới như   các loại bình đun nước nóng bằng năng lượng mặt trời, động cơ gió, hầm khí   sinh vật… ở những nơi có điều kiện. Các DN cũng được “xác lập” cơ chế thông   thoáng và cởi mở trong việc xúc tiến hợp tác chuyển giao công nghệ của các   nước đã phát triển để tiến hành lắp ráp, chế tạo trong nước. Các cá nhân, tổ   chức kinh tế trong và ngoài nước được phép đầu tư khai thác nguồn năng lượng   mới và tái tạo trên cơ sở đôi bên cùng có lợi.
 Là một quốc gia có tiềm năng về năng lượng mới và tái tạo, song chúng ta vẫn   còn có những hạn chế, rào cản về công nghệ và tài chính dẫn đến việc chậm trễ   trong việc phát triển các dạng năng lượng này. Thời gian tới chỉ bằng những   nỗ lực cụ thể trong đầu tư nguồn tài chính, nhân lực, công nghệ và hợp tác   quốc tế, Việt Nam mới hy vọng sớm có được những bước tiến mới trong việc áp   dụng công nghệ hiện đại để sớm đưa năng lượng mới và tái tạo trở thành một   yếu tố quan trọng trong cân bằng nhu cầu năng lượng tổng thể quốc gia và   nguồn năng lượng này cũng sớm trở thành “một phần tất yếu” trong cuộc sống   sinh hoạt hàng ngày của người dân và của nền kinh tế./.
   (Nguồn: Kinh tế   VN) |