Hình thức hợp tác công - tư phải được “thể chế hoá” thành luật chặt chẽ, tạo pháp lý để đảm bảo tính minh bạch, công bằng trong đầu tư. Với tiềm năng hiện có cộng với luật đầu tư hợp lý, điện tái tạo Việt Nam không lo sẽ “phí hoài, phí mãi”.
Gần đây, cục Điều tiết Điện lực - Bộ Công Thương và Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã gặp không ít khó khăn khi sản lượng thuỷ điện có nguy cơ suy giảm do thời tiết khô hạn kéo dài. Không ít nhà máy thuỷ điện xả nước cầm chừng để “tiết kiệm nước” chờ mùa lũ tháng 5. Xét ở một góc độ khác, trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng ảnh hưởng mạnh đến thời tiết, thì việc bám trụ vào thuỷ điện sẽ đẩy ngành năng lượng vào thế “chịu trận”.
Thay vào đó, nên “lục lại” giải pháp năng lượng tái tạo như một giải pháp quan trọng để xem xét về tương lai ngành năng lượng Việt Nam.
Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã, đang gặp không ít khó khăn khi sản lượng thuỷ điện có nguy cơ suy giảm do thời tiết khô hạn kéo dài. Ảnh: Mạnh Quân
Ba thách thức lớn trong đầu tư
Việc đầu tư vào ngành năng lượng tái tạo đã được Nhà nước đề cập từ nhiều năm trước đây và không ít các công trình đã “tiên phong” do ý thức được tính cấp bách và quan trọng của vấn đề an ninh năng lượng. Thứ trưởng Bộ Công Thương Hoàng Quốc Vượng từng cho biết: Khó khăn lớn về năng lượng sẽ xảy ra khi năng lượng hoá thạch (than đá, dầu khí) dự báo sẽ cạn kiệt trong 20 năm nữa. Trong khi đó, ngành thuỷ điện cũng sẽ “hết công suất” vào năm 2020.
Trái với lượng cung hữu hạn, theo Viện Năng lượng, Việt Nam sẽ dùng đến trên 250 triệu TOE (tấn dầu quy đổi) vào năm 2030, tăng gấp năm lần so với năm 2009. Hệ luỵ của sự “bất đối xứng” giữa khả năng cung và nhu cầu chính là nguy cơ nhập than đá cho nhà máy điện vào khoảng năm 2015 và số lượng điện nhập khẩu từ Trung Quốc ngày càng tăng mạnh.
Tuy nhiên, tính đến nay, tỷ lệ điện năng lượng tái tạo chỉ chiếm 2% nguồn cung điện quốc gia (tương đương 1,7 tỉ kWh), nhưng chủ yếu vẫn là thuỷ điện nhỏ, điện mặt trời và khí sinh học, nhưng công suất không đáng kể. Vì sao vậy?
Thứ nhất, đầu tư vào ngành năng lượng tái tạo đòi hỏi chi phí sản xuất rất lớn. Việc xây dựng nhà máy sản xuất, đơn cử như nhà máy sản xuất pin năng lượng mặt trời, chiếm từ một đến vài tỉ đôla Mỹ. Theo ước tính, chi tiêu cho nguồn nguyên tố silicium để chế tạo một pin mặt trời mất khoảng 60 USD/kg năm 2007 và 67 USD/kg vào năm 2015. Trong bối cảnh kinh tế khó khăn như hiện nay, rõ ràng Việt Nam khó có thể một mình “gồng gánh”.
Thứ hai, các rào cản chính sách vẫn còn là khúc mắc lớn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tờ trình số 57/TTr-CP ngày 3.4.2012 của Chính phủ trình Quốc hội cùng với dự thảo Luật Điện lực sửa đổi vẫn là chưa đủ, nếu không muốn nói là sơ sài, để có thể làm yên tâm và thu hút các nhà đầu tư “triệu đô” vào ngành năng lượng tái tạo. Thế nên nhiều ý kiến tại hội thảo Tham vấn ý kiến Luật Điện lực sửa đổi năm 2012 do Trung tâm Sáng tạo Xanh (GreenID), Viện Rosa Luxemburg (Đức), Quỹ Quốc tế về bảo vệ thiên nhiên (WWF) và ActionAid Việt Nam phối hợp tổ chức đã cho rằng: nhất thiết phải bổ sung bộ luật sản xuất và tiêu dùng năng lượng tái tạo. Việc Tập đoàn Năng lượng First Solar (Mỹ) tuyên bố rút đầu tư dự án pin mặt trời 1,2 tỉ USD tại Việt Nam năm 2012 là một trong những bài học về chính sách thu hút nguồn lực mà Việt Nam cần quan tâm.
Thứ ba, khả năng, trình độ và kinh nghiệm quản lý mô hình điện tái tạo tại Việt Nam còn rất kém. Khi nhiều quốc gia trên thế giới như Mỹ, EU, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Trung Quốc đã “điện tái tạo hoá” phần lớn tổng lượng điện trong lưới điện quốc gia thì Việt Nam vẫn còn loay hoay về hạ tầng, công nghệ, vốn và phương thức quản lý. Điều này phản ánh sự thụ động trong việc tiếp nhận các bài học quốc tế trong ngành năng lượng tái tạo từ Chính phủ lẫn các nhà đầu tư tư nhân. Sâu hơn nữa là thiếu vắng quá trình chuẩn bị - các công trình nghiên cứu - từ lý thuyết đến thực tiễn.
Theo nghiên cứu của Cutler J. Cleveland (đại học Boston) thì lượng năng lượng mặt trời cung cấp cho trái đất trong một phút bằng toàn bộ lượng năng lượng hoá thạch mà thế giới tiêu dùng cả năm. Như vậy, thiếu vốn đầu tư, thiếu chính sách thu hút nguồn lực lẫn thiếu người có khả năng “cầm chèo” trong quản lý đã làm hao phí tiềm năng vô tận này.
Nhiều quốc gia trên thế giới như Mỹ, EU, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Trung Quốc đã “điện tái tạo hoá” phần lớn tổng lượng điện trong lưới điện quốc gia thì Việt Nam vẫn còn loay hoay về hạ tầng, công nghệ, vốn và phương thức quản lý.
Trước thể chế, sau tiến hành
Tuy nhiên, trong một nghiên cứu gần đây của Mark Jacobson và Mark Delucchi ở đại học Stanford thì “những rào cản chính cho việc chuyển đổi hoàn toàn sang năng lượng tái tạo chính là các rào cản về xã hội và chính trị chứ không phải công nghệ, thậm chí cũng không phải vấn đề kinh tế”.
Đồng tình với quan điểm trên, tác giả John Farrell trong một báo cáo mới của Viện Local Self-Reliance, nhận định rằng: “Thách thức với chúng ta không phải là làm thế nào sản xuất điện từ năng lượng tái tạo đủ rẻ, mà là làm thế nào để chúng ta chuẩn bị cho điều đó”.
Như vậy, vấn đề vốn, công nghệ hay quản lý đều là những thách thức mang tính thứ yếu. Điều quan trọng nhất là “làm thế nào để Việt Nam có thể huy động được những yếu tố vừa nêu”. Một trong những giải pháp được đề cập trong thời gian qua chính là hợp tác công - tư (public private partnership - PPP). Đây là hình thức tập trung, chuẩn bị nguồn lực bao gồm vốn, công nghệ, quản lý rất hiệu quả mà rất nhiều nước trên thế giới đã thực hiện thành công. Việc tập hợp yếu tố công - đảm bảo chính sách và đầu ra cho sản xuất, cùng yếu tố tư - tập hợp vốn, công nghệ, quản lý theo cơ chế “ổ - chìa” giúp Việt Nam có thể có đủ nguồn lực phục vụ đầu tư.
Thế nên hình thức hợp tác công - tư phải được “thể chế hoá” thành luật chặt chẽ, tạo pháp lý để đảm bảo tính minh bạch, công bằng trong đầu tư. Với tiềm năng hiện có cộng với luật đầu tư hợp lý, điện tái tạo Việt Nam không lo sẽ “phí hoài, phí mãi”.
Theo Năng lượng Việt Nam